Theo Hồ Chí Minh: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”
[1]. “Chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và giai cấp công nhân toàn thế giới”
[2]. Để hoàn thành sự nghiệp cách mạng to lớn đó, bên cạnh những yếu tố chủ quan và khách quan, bên trong và bên ngoài, dân tộc và quốc tế, truyền thống và hiện đại v.v.. thì nhân tố trước tiên, quyết định là phải có đảng cách mạng lãnh đạo. Người viết: Cách mệnh trước hết phải có cái gì? Trước hết phải có Đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Lực lượng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động là rất to lớn, là vô cùng tận. Nhưng lực lượng ấy cần có Đảng lãnh đạo mới chắc chắn thắng lợi”
[3]. “Giai cấp mà không có Đảng lãnh đạo thì không làm cách mạng được”
[4]. Nếu không có nhân dân thì Đảng không có lực lượng, nếu không có Đảng thì nhân dân không có người dẫn đường. Nhờ“Có Đảng lãnh đạo, dân tộc ta đã trở thành một dân tộc anh hùng, được bè bạn khắp năm châu yêu mến và kính trọng”
[5].
Thực tiễn đã chứng minh, từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về vai trò lãnh đạo, về đường lối cứu nước, khắc phục tình trạng các phong trào giải phóng dân tộc phát triển rầm rộ nhưng không có lối ra. Sư kiện thành lập Đảng là một sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên có tính quyết định cho những bước phát triển tiếp theo của cách mạng Việt Nam. Với đường lối chính trị đúng đắn, phù hợp của Đảng Cộng sản, nhân dân Việt Nam đã có phương hướng đấu tranh đúng và chuyển sang một thời kỳ lịch sử mới.
Trong hơn 90 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Việt Nam đã giành được nhiều thắng lợi to lớn chưa từng có trong lịch sử dân tộc. Mới 15 tuổi, Đảng đã lãnh đạo nhân dân thực hiện thành công Cách mạng Tháng Tám, thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, độc lập, tự do, hạnh phúc - nhà nước công nông đầu tiên trong khu vực Đông Nam Á; tiến hành cuộc kháng chiến, kiến quốc trường kỳ gian khổ 30 năm, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, mở ra kỷ nguyên độc lập - thống nhất - xã hội chủ nghĩa trên cả nước.
Vào những năm cuối thế kỷ XX, nhiều nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô rơi vào khủng hoảng, thoái trào, các Đảng Cộng sản ở đó mất vai trò cầm quyền đặt ra những thử thách lớn đối với Đảng và nhân dân ta.
Trong tình hình mới, Đảng ta khẳng định: “...đối với nước ta không còn con đường nào khác để có độc lập dân tộc thực sự và có tự do hạnh phúc cho nhân dân. Cần nhấn mạnh rằng đây là sự lựa chọn của chính lịch sử, sự lựa chọn đã dứt khoát từ năm 1930, với sự ra đời của Đảng ta, trong lúc các phong trào cứu nước từ lập trường Cần Vương đến lập trường tư sản, tiểu tư sản, qua khảo nghiệm lịch sử đều lần lượt thất bại”
[6]. Việc Đảng và nhân dân ta luôn kiên định con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước giành được nhiều thành tựu to lớn đã minh chứng rõ điều đó.
Nhìn lại sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, những thành tựu của hơn 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991, đặc biệt, trong 10 năm thực hiện Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã tiếp tục khẳng định đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo. Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử là kết tinh sức sáng tạo của Đảng và nhân dân ta, khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Với những thành tựu to lớn đã đạt được, càng thấy tính tất yếu phải giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự sống còn của đất nước, dân tộc, chế độ. Sự lãnh đạo của Đảng là một bảo đảm căn bản cho thắng lợi của công cuộc đổi mới đất nước. Tuy nhiên, việc khẳng định tính tất yếu phải có Đảng và sự lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng nước ta không chỉ là vấn đề thuộc về nguyên tắc của lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mà còn là những yêu cầu nóng hổi rút ra từ yêu cầu bức bách của thực tiễn cuộc sống, từ tình cảm và lý trí sáng suốt của nhân dân ta.
Quá khứ và hiện tại cho phép chúng ta rút ra những bài học kinh nghiệm, những vấn đề có tính qui luật về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với sự phát triển của dân tộc. Đảng ta khẳng định vai trò lãnh đạo duy nhất của mình đối với tiến trình cách mạng Việt Nam từ trước đến nay và từ nay về sau là vấn đề có tính nguyên tắc, có tính qui luật, đặc biệt trong giai đoạn Đảng lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước, thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều này đã được Hội nghị Trung ương 6 (khoá VI) của Đảng coi là một trong những nguyên tắc trong tiến hành công cuộc đổi mới: Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng duy nhất có vai trò to lớn lãnh đạo cách mạng Việt Nam; đó là yếu tố giữ vững chế độ xã hội chủ nghĩa, sự ổn định chính trị và thành công của công cuộc đổi mới.
Khi khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã xác định đây là vai trò của đội tiên phong chính trị chứ không phải là một tổ chức quyền lực đứng trên mọi tổ chức của xã hội. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng lãnh đạo, tôn trọng và phát huy vai trò của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội; hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Đảng lãnh đạo thông qua hệ thống chính trị, trước hết và chủ yếu thông qua bộ máy Nhà nước. Năng lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước thể hiện năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng. Đảng lãnh đạo phát huy quyền làm chủ của nhân dân, gắn bó với nhân dân, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân để thực hiện sự nghiệp cách mạng. Đảng lãnh đạo bằng chính vai trò tiên phong gương mẫu của các tổ chức đảng, của đội ngũ đảng viên hoạt động trong hệ thống chính trị. Tựu trung lại, Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo Nhà nước, các đoàn thể nhân dân và xã hội bằng công tác tư tưởng, chính trị, công tác tổ chức, cán bộ và bằng vai trò tiên phong gương mẫu của đội ngũ đảng viên của Đảng. Đảng không bao biện, làm thay các công việc của các tổ chức đó, nhưng Đảng cũng không buông lỏng vai trò lãnh đạo của mình. Đó là vấn đề có tính nguyên tắc.
Bước vào giai đoạn cách mạng mới, Đảng cộng sản Việt Nam có sứ mệnh lịch sử to lớn và nặng nề hơn: lãnh đạo nhân dân củng cố vững chắc độc lập dân tộc và xây dựng đất nước theo con đường chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; tiếp tục công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước để có dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Trong bối cảnh phức tạp, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam càng được thử thách và khẳng định, kiên định mục tiêu cách mạng, giữ vững tinh thần độc lập, tự chủ, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới đất nước. Sự lãnh đạo của Đảng là một nhân tố quyết định tạo ra những thành tựu to lớn đã đạt được trong công cuộc đổi mới; đồng thời, quá trình đổi mới cũng đã làm cho Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng lớn mạnh và trưởng thành.
Ngày nay, kiên định vai trò lãnh đạo của Đảng là vấn đề có tính nguyên tắc, là nhân tố bảo đảm cho công cuộc đổi mới thành công, đưa đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế thị trường, mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế, càng phải giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng. Đó là sứ mệnh của Đảng trước vận mệnh của nhân dân và của dân tộc Việt Nam.
Trước sứ mệnh lịch sử trọng đại do nhân dân giao phó, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn ý thức rõ trách nhiệm và vai trò lãnh đạo của mình, coi đó là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Bước vào giai đoạn cách mạng mới, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn là nhân tố quyết định thắng lợi và tương lai phát triển của dân tộc, của đất nước. Để thực hiện và hoàn thành xuất sắc sứ mệnh lịch sử và vai trò lãnh đạo của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam đã không ngừng tự đổi mới, tự chỉnh đốn, tự hoàn thiện mình ở tầm cao trí tuệ và đạo đức, xứng đáng với lòng tin tưởng và trách nhiệm cao cả trước nhân dân.
Đặng Triệu Hùng
Khoa Xây dựng Đảng
[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 9, Nxb CTQG, Hà Nội 2000, tr. 314.
[2] SĐD, tập 12, tr. 474.
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự Thật, Hà Nội 1991, tr. 109.