Xét một cách khách quan, cần thiết phải thay đổi thể chế kinh tế kế hoạch cứng nhắc, nhưng xây dựng một thể chế kinh tế mới như thế nào thì ban đầu cũng chưa thật rõ ràng. Việc đề ra mục tiêu phải xây dựng thể chế KTTT định hướng XHCN được dần xác định rõ thông qua việc tìm tòi lý luận, thực tiễn trong quá trình vừa làm vừa nghiên cứu vận dụng.
Quan điểm của Mác - Ăngghen - Lênin đều cho rằng CNXH là thực hiện kinh tế kế hoạch, nhiệm vụ chủ yếu là loại bỏ quan hệ hàng hóa tiền tệ. Ở Việt Nam trước đổi mới nhìn từ góc độ lý luận kinh tế học: KTTT là: “Sản phẩm riêng có” của chủ nghĩa tư bản, cho rằng KTTT đồng nghĩa với chủ nghĩa tư bản, kinh tế kế hoạch đồng nghĩa với CNXH. Tiếp đến CNXH thực hiện KTTT là chưa có tiền lệ thành công, như một số nước XHCN ở Đông Âu đã thực hiện một số tìm tòi như mở rộng quyền tự chủ của kinh tế doanh nghiệp và nông trang, nới lỏng thị trường, nhưng cũng không từ bỏ kinh tế kế hoạch về căn bản, do vậy không thể nói là thực hiện KTTT. Nói KTTT chỉ tồn tại ở chủ nghĩa tư bản, chỉ có KTTT của chủ nghĩa tư bản, điểm này không chính xác, CNXH tại sao lại không thể thực hiện KTTT. Vì vậy, cùng với việc xây dựng nền KTTT định hướng XHCN, Đảng đã có chủ trương nhất quán về xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế cho nền kinh tế này. Đến nay, từ các văn kiện, nghị quyết của Đảng, chính sách của Nhà nước đều thống nhất quan điểm: thể chế KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam được cấu thành bởi hệ thống các bộ phận khác nhau mà mỗi bộ phận cũng là một hệ thống phức tạp gồm nhiều yếu tố: Các luật lệ, quy tắc điều hành nền kinh tế; các chủ thể tham gia vào hoạt động trong nền kinh tế; cơ chế thực thi các luật, quy tắc và điều chỉnh các mối quan hệ giữa các chủ thể; hệ thống thị trường.
Nhìn lại tư duy lý luận từ Đại hội Đảng lần thứ VI đến Đại hội XII, thể chế KTTT định hướng XHCN ngày càng được hoàn thiện và được chứng minh tính đúng đắn trên thực tế đất nước. Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII, khẳng định "Tăng cường quản lý vĩ mô của Nhà nước khắc phục những tồn tại vốn có của nền KTTT, làm cho thị trường thật sự trở thành công cụ quan trọng trong việc phân bổ, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực… thúc đẩy tăng trưởng nhanh, ổn định vững chắc hơn, công bằng xã hội nhiều hơn"
[1] . Đại hội lần thứ VIII khẳng định "Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý kinh tế bao gồm việc tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật về kinh tế; tiếp tục đổi mới công tác kế hoạch hóa… nâng cao hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước"
[2]. Quan điểm cần thiết lập thể chế KTTT XHCN, chính là phải để thị trường phát huy vai trò mang tính nền tảng trong việc phân bổ nguồn lực dưới sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước, khiến cho hoạt động kinh tế tuân theo yêu cầu quy luật giá trị, thích ứng với sự thay đổi của quan hệ cung cầu. Thông qua chức năng của đòn bẩy giá cả và cơ chế cạnh tranh để nguồn lực được phân bổ đến các khâu có hiệu quả kinh tế cao, đồng thời đem đến áp lực và động lực cho doanh nghiệp. Như vậy, Đại hội XII đã có bước đột phá về tư duy về KTTT, coi đó là yếu tố quan trọng để phát triển đất nước, đi lên CNXH.
Đến Đại hội IX mô hình kinh tế được khẳng định “Phát triển KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa là đường lối chiến lược nhất quán, là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở Việt Nam”
[3]. Đây là kết quả của quá trình 15 năm đổi mới tư duy và thực tiễn ở nước ta, được đúc kết lại trên cơ sở kiểm điểm, đánh giá và rút ra các bài học lớn tại các kỳ đại hội Đảng, đặc biệt là Đại hội VII, VIII. Đại hội X nêu lên những đặc trưng cơ bản của nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta và đề ra nhiệm vụ “Hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN”, "Phát triển nền kinh tế có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó, kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế"
[4] . Đại hội XI thông qua Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020, trong đó coi “Hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN, trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính”
[5] là một trong ba đột phá chiến lược. Đại hội XI tiếp tục nhấn mạnh yêu cầu giữ vững định hướng XHCN của nền KTTT và nêu lên những quan điểm mới. Đại hội nêu rõ: “Nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đây là một hình thái KTTT vừa tuân theo những quy luật của KTTT, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của CNXH”
[6] .
Đại hội XII khẳng định “Tiếp tục hoàn thiện thể chế, phát triển KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa” là một nhiệm vụ tổng quát của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2016 - 2020. Điều này cho thấy Đảng đã nhận thấy và tiếp tục khẳng định tầm quan trọng của việc tạo lập và hoàn thiện thể chế KTTT để phát triển kinh tế đất nước.
Định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 – 2030 được Đại hội XIII thông qua cũng đã chỉ ra rằng: Hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo môi trường thuận lợi để huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, thúc đẩy đầu tư, sản xuất kinh doanh.
Bởi vì, một thể chế kinh tế thị trường đồng bộ và hiện đại là tiền đề quan trọng thúc đẩy quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và ổn định kinh tế vĩ mô: “Thống nhất nhận thức nền KTTT định hướng XHCN Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của KTTT; đồng thời, bảo đảm định hướng XHCN phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền KTTT hiện đại và hội nhập quốc tế; …”
[7]. Điều đó có nghĩa là nền kinh tế của chúng ta không khác biệt mà mang đầy đủ các đặc trưng phổ quát của KTTT như: tự do kinh doanh và cạnh tranh; mở cửa và hướng tới tự do hóa; đa dạng hóa các hình thức sở hữu; lấy quy luật giá trị và quan hệ cung cầu để xác định giá cả; coi cạnh tranh là động lực phát triển;...Vai trò của thị trường được nhấn mạnh, thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và theo các ưu tiên tùy từng giai đoạn phát triển, từng mục tiêu nhưng không tách rời cơ chế thị trường, phải dựa trên nguyên tắc và quy luật thị trường để lựa chọn và phân bổ, đảm bảo hiệu quả và tối ưu trong phân bổ nguồn lực.
Trải qua quá trình xây dựng lý luận và tổng kết thực tiễn có thể thấy, thể chế KTTT của nước ta đã bước đầu được thiết lập, nhưng vẫn tồn tại không ít vấn đề, chủ yếu là trật tự thị trường chưa quy phạm, các hiện tượng như dùng thủ đoạn bất chính để giành lấy lợi ích về kinh tế vẫn còn tồn tại phổ biến; thị trường các yếu tố sản xuất phát triển kém; quy tắc thị trường không thống nhất, chủ nghĩa bảo hộ bộ ngành và bảo hộ địa phương còn tồn tại nhiều; cạnh tranh thị trường không đầy đủ, gây trở ngại cho đào thải tự nhiên và điều chỉnh kết cấu… Những vấn đề này không giải quyết tốt, thể chế KTTT XHCN khó hoàn thiện. Vì vậy, vấn đề mấu chốt của xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế là làm sao xử lý tốt mối quan hệ giữa chính phủ và thị trường, để thị trường phát huy vai trò mang tính quyết định trong phân bổ nguồn lực và phát huy tốt hơn nữa vai trò của chính phủ. Điều này phản ánh nhận thức của Đảng đối với quy luật KTTT định hướng XHCN đã sâu sắc hơn, đây là sáng tạo lý luận to lớn. Cải cách thể chế kinh tế cần phải lấy hoàn thiện chế độ quyền sở hữu tài sản và phân bổ thị trường hóa các yếu tố làm trọng điểm, khích lệ quyền sở hữu tài sản, các yếu tố tự do lưu động, giá cả phản ứng linh hoạt, cạnh tranh công bằng có trật tự, chủ thể vi mô có sức sống, điều tiết vĩ mô vừa phải, có hiệu quả. Những luận điểm tư tưởng về hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN này đã trở thành nội dung quan trọng trong đường lối phát triển kinh tế của đất nước.
ThS. Lê Chí Trung - ThS. Vũ Thị Nhàn
Khoa Lý luận cơ sở
1 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1994, tr.35.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo chính trị Đại hội Đại biểu toàn quốc VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,1996.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.86 – 88.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr 187.
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, ( 2011, tr 106.
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr 34.
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2016, tr 25.